Đái tháo đường (hay Tiểu đường, Đái đường) là một bệnh chuyển hoá, căn cốt tử là do thiếu hoàn toàn hoặc ko hoàn toàn chất insulin (hormon của tuyến tuỵ) trong máu. Đây là 1 mẫu bệnh vô cùng hay gặp (ĐTĐ chiếm tỉ lệ đến 60 – 70% những bệnh về nội tiết kể chung) và gây nhiều biến chứng ở những cơ quan trong cơ thể. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho rằng, bệnh ĐTĐ diễn tả bằng sự rối loạn chuyển hoá glucose, nồng độ glucose trong máu càng ngày càng nâng cao và xuất hiện glucose trong nước tiểu. Cũng chính vì lý do này mà người ta lấy tên của triệu chứng tiêu biểu này để đặt tên cho bệnh.
Tại Việt Nam tỉ lệ người mắc ĐTĐ ngày càng tăng và có tới 50% người mắc ĐTĐ ko biết mình mang bệnh. Ngoài ra một số người bị ĐTĐ còn với căn nguyên là do các bệnh nội tiết khác, hoặc do thuốc và hoá chất …
ĐTĐ mang 2 dạng chính, đấy là ĐTĐ typ một và ĐTĐ typ 2.
Thế nào là ĐTĐ typ 1?
ĐTĐ typ 1 là ĐTĐ lệ thuộc insulin (hay gặp ở người trẻ tuổi). Đây là một tình trạng rối loạn chuyển hoá, mà duyên cớ chính là do tế bào beta của tuyến tuỵ ko tổng hợp và tiết đủ insulin, lượng insulin lưu hành trong máu cực kỳ ít, phải ko thể điều hoà được lượng glucose trong máu. ĐTĐ typ 1 là một bệnh thể nặng, thường xuất hiện đột ngột, diễn biến cấp tính, hay gặp sau khi nhiễm khuẩn hoặc nhiễm độc, với thể dẫn tới hôn mê.
Thế nào là bệnh ĐTĐ typ 2?
Khác mang ĐTĐ typ 1, bệnh ĐTĐ typ 2 ko lệ thuộc insulin. Bệnh hay gặp ở người cao tuổi, người béo, nữ mắc rộng rãi hơn nam. Đối sở hữu thể bệnh này, insulin do tuyến tuỵ tiết ra với thể đạt được số lượng như người bình thường nhưng lại giảm hoặc không với tác dụng điều hoà lượng glucose trong máu, do với kháng thể kháng insulin chống lại hoặc receptor kết nạp insulin trên màng tế bào bị hỏng. Đây là thể bệnh phổ biến, sở hữu tới hơn 90% số người bị ĐTĐ là thuộc typ 2.
Triệu chứng và những biến chứng của bệnh ĐTĐ?
Dù là ĐTĐ typ một hay typ 2 các bệnh nhân đều sở hữu những triệu chứng: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu phổ biến và sút cân. Ngoài ra người bệnh còn bị khô miệng, khô da, mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, mất ngủ, rụng tóc và rối loạn kinh nguyệt (ở phụ nữ), vết thương lâu lành, sở hữu cảm giác kiến bò ở đầu chi … Nếu bệnh nhân không được khám và điều trị với thể dẫn tới những biến chứng nặng và phức tạp ở những phủ tạng.
Các biến chứng của bệnh ĐTĐ thường xẩy ra là:
* Biến chứng mạch máu: Tổn thương huyết mạch do nâng cao lipid máu gây vữa xơ động mạch. Tổn thương huyết quản lớn gây ra nhồi máu cơ tim, tỉ lệ nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân ĐTĐ siêu cao, gây co thắt và hẹp các động mạch tứ chi, dẫn đến tắc mạch gây hoại tử. Tổn thương huyết quản nhỏ gây ra rối loàn chức năng một số cơ quan như thận, tiết niệu, võng mạc mắt, ví như không được điều trị tích cực mang thể dẫn tới suy thận, mù lòa…
* Biến chứng não: Tắc huyết quản não, gây nhũn não hoặc xuất huyết não.
* Biến chứng hô hấp: Dễ bị viêm phổi, viêm phế quản do bội nhiễm vi khuẩn.
* Biến chứng tiêu hoá: Hay bị viêm vòng vèo răng, viêm loét dạ dày, rối loàn chức năng gan, tiêu chảy.
* Biến chứng thận, tiết niệu: Rối loạn chức năng thận và bàng quang, mà tiêu biểu là suy tiểu cầu thận, viêm bể thận cấp tính hoặc mạn tính.
* Biến chứng thần kinh: Có cảm giác đau, rát bỏng, mang kiến bò ở các đầu chi (đau tăng về đêm, di chuyển thì đỡ đau); teo cơ …
* Biến chứng ở mắt: Tổn thương những huyết mạch võng mạc mắt làm cho suy giảm thị lực. Đây là 1 miêu tả rõ nhất hay gặp nhất ở bệnh nhân bị ĐTĐ.
* Biến chứng ở da: Ngứa ngoại trừ da, thường hay bị mụn nhọt, lòng bàn tay, bàn chân có ánh vàng; xuất hiện các u màu vàng gây ngứa ở gan bàn tay, bàn chân, mông, nẫm da, viêm mủ da.